Thứ sáu, 16/12/2011, 01:05 (GMT+7) | ||
Thêm
một lần nữa những hạn chế, bất cập cũng như thách thức của ngành khoa
học xã hội (KHXH) thời hội nhập đã được nhiều chuyên gia trong và ngoài
nước xới lên tại hội thảo quốc tế về KHXH thời hội nhập, do ĐH Quốc gia
TPHCM tổ chức ngày 15-12.
PGS-TS Phan Thanh Bình, Giám đốc
ĐH Quốc gia TPHCM, nhấn mạnh: “KHXH Việt Nam chưa thật sự phát triển
mạnh mẽ, thường mang nặng tư tưởng tự kỷ, ỷ lại và khép kín. Chính điều
này đã dựng lên một hàng rào về nhận thức, đồng thời ảnh hưởng đến việc
đưa KHXH phát triển như một ngành khoa học thật sự”. Đồng tình với quan
điểm này, GS-TS Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV (ĐH Quốc gia
TPHCM), chia sẻ: “Hội nhập về khoa học nhân văn là quá trình gặp nhiều
khó khăn nhất hiện nay. Vì thế, vấn đề nghiên cứu, đào tạo phải giải
quyết được bài toán truyền thống và hiện đại”.
GS-TSKH Trần Ngọc Thêm, Chủ tịch
Hội đồng Khoa học - Đào tạo ĐH Quốc gia TPHCM, băn khoăn: Khoa học nói
chung và KHXH chậm phát triển trong khi kinh tế đang bắt đầu đi lên và
quản lý chưa hoàn toàn thoát khỏi những hạn chế của nền nếp quản lý
trước đó. Hệ quả là khoa học, giáo dục lạc hậu và còn khoảng cách quá xa
so với thế giới.
Với cái nhìn của một người ngoại
đạo, GS-TS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales (Australia), thẳng thắn
nhận xét điểm yếu lớn nhất của ngành KHXH Việt Nam là khâu nghiên cứu.
Nghiên cứu KHXH Việt Nam hiện diện trên các tạp chí khoa học trong nước
rất nhiều nhưng lại quá hiếm trên các tạp chí khoa học uy tín thế giới. Số
liệu thống kê năm 2004 cho thấy, trong số 8.408 bài báo khoa học trên
các tạp chí, kỷ yếu khoa học, có đến 4.345 (chiếm 53%) bài báo liên quan
đến lĩnh vực KHXH.
Tuy nhiên, chưa tới 10 bài được
xuất hiện trên các tạp chí khoa học quốc tế. Trong giai đoạn 1996-2005,
trong số 3.456 bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tạp chí quốc tế,
chỉ có 69 bài (khoảng 2%) liên quan đến ngành KHXH. Do đó, tuy số lượng
nghiên cứu KHXH ở nước ta cao hơn so với các ngành khoa học tự nhiên
nhưng đa số những nghiên cứu đó chỉ xuất hiện trên các tạp chí trong
nước.
GS Tuấn cho rằng, lý do ở vấn đề
định lượng. Bởi lẽ, phần lớn những nghiên cứu KHXH ở Việt Nam chưa áp
dụng những phương pháp khoa học và phương pháp thống kê trong việc thiết
kế nghiên cứu, phân tích, diễn giải dữ liệu. Và tất nhiên, trong đó,
nhiều sai sót về cách lấy mẫu, phân tích và suy luận dữ liệu có thể tìm
thấy trong rất nhiều bài báo thuộc lĩnh vực KHXH. Do đó, chất lượng các
đề tài nghiên cứu KHXH chưa cao nên khó có cơ hội để được công bố trên
các tạp chí KHXH quốc tế.
GS-TS Hồ Sĩ Quý, Viện Thông tin
KHXH Việt Nam, cho rằng: “Vấn đề số liệu và yếu tố định lượng trong
nghiên cứu KHXH hiện nay có độ tin cậy kém”. Dẫn chứng thêm về lập luận
này, GS Quý đã nêu ra các số liệu như tỷ lệ người nghèo, chiều cao trung
bình, tuổi thọ trung bình của Việt Nam, tỷ lệ tai nạn giao thông thường
rất khó tin. Đặc biệt, nếu chúng ta lấy số liệu điều tra xã hội học thì
lại càng không đáng tin cậy…
Bàn về vấn đề hội nhập của KHXH
Việt Nam, GS-TS Trần Văn Đoàn, Khoa Triết học ĐH Quốc gia Đài Loan
(Trung Quốc) cho rằng, Việt Nam dễ dàng được mời gọi nếu biết tiếp cận
mạnh mẽ của cộng đồng thế giới hay những người, những xã hội mà chúng ta
giao tiếp. Đó có thể là ở khao khát thông tin, muốn biết thêm về những
gì chưa biết, muốn tìm một giải pháp cho một vấn nạn, muốn trao đổi,
chia sẻ kiến thức. Dẫn kinh nghiệm từ Singapore, lãnh thổ Đài Loan, Hàn
Quốc, GS Đoàn cho rằng: “Họ cũng từng là những chú chích chòe, nay đã
biến thành đại bàng và đang muốn thành rồng”.
Chia sẻ kinh nghiệm, GS-TS Lưu
Hiểu Phong, Trường ĐH Thanh Hoa (Trung Quốc), cho biết: Khối ngành KHXH ở
ĐH Thanh Hoa bị loại bỏ năm 1952 và mãi đến năm 1978 mới bắt đầu được
chú trọng. Đến năm 2009, theo bảng xếp hạng ĐH quốc tế, nhóm ngành KHXH
của trường đứng ở vị trí thứ 43. Trong năm 2010, nhóm ngành này xếp ở vị
trí thứ 6 (trong khi năm 1997 xếp vị trí 122). Và hiện nay, chủ trương
giáo dục của ĐH Thanh Hoa là “hội thông” (hiểu biết rộng và thông suốt),
có nghĩa là cổ - kim thông suốt, đông - tây kết hợp, văn - lý thẩm thấu
làm mục tiêu bồi dưỡng sinh viên.
Để đưa KHXH Việt Nam hội nhập và
được cộng đồng thế giới quan tâm, theo GS Đoàn, trước tiên chúng ta phải
biết xây dựng một nền khoa học nhân văn Việt. Những ngành như Việt Nam
học, Đông Nam Á học, Văn hóa học, Ngôn ngữ, Sử học, Triết học, Khảo cổ
học… phải là những ngành khoa học quan trọng trong khoa học nhân văn của
khu vực.
Thanh Hùng
|
Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011
Xây dựng nền khoa học nhân văn Việt - (SGGP)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét