CHỈ CÓ THỂ KẾT LUẬN ĐƯỢC THẾ THÔI CHĂNG…?
Hương Giang
Lời dẫn của Phạm Tôn:
Dịp kỷ niệm lần thứ 67 Cách Mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm nay,
đầu tháng 8/2012, chúng tôi nhận được bài sau đây của bạn Hương Giang.
Xin mời quí bạn đọc để thấy rõ hơn lịch sử đã có những bước đi quanh co
thế nào?
—o0o—
Kho lưu trữ của Bảo tàng cách mạng Việt Nam Hà Nội, có sáu cuốn sổ tay khổ giấy học trò, ngoài bìa ghi Sổ tiếp khách.
Đó là những cuốn sổ ghi hằng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp những người
đã đến gặp Chủ tịch, từ ngày 4/9/1945 đến tháng 3/1946. Có lẽ còn nhiều
cuốn sổ tiếp khách nữa, nhưng Bảo tàng không lưu trữ được, hoặc là mất,
thất lạc, hoặc đến thời gian đó … do nhiều lý do mà không tiếp tục ghi.
Qua các Sổ tiếp khách này, người nghiên cứu có thể thấy điểm nổi bật:
1. Hầu như không ngày nào, kể cả vào ngày
nghỉ, chủ nhật, Bác Hồ lại không tiếp khách, có ngày tới mười đoàn thể,
có ngày 20, 30 vị khách.
2. Khách trong nước có đủ: già, trẻ,
trai, gái, đồng bào Phật giáo, Công giáo… các nhà buôn, các điền chủ,
các hội tương tế, Hướng đạo, các nhân sĩ, trí thức, nghệ sĩ, nhà văn,
nhà thơ…
3. Khách nước ngoài có các vị quan chức
Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, các nhà ngoại giao, nhà báo quốc tế các
nước Pháp, Anh, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia…
Khách đến “yết kiến”, báo cáo, trao đổi,
xin chỉ thị… Khách đến đây, không hạn chế là do Bác tự đề nghị, sẵn sàng
“vui lòng tiếp đón, một ngày không quá mười đoàn, mỗi đoàn không quá
mười người”.
Cuốn sổ đánh dấu số 5, ngày 15/1/1946, bên cạnh tên các vị khách, có dòng chữ “Cụ tiếp Ngô Đình Diệm”.
Sự kiện này, ban đầu, người biết được
không nhiều. Đến năm 1990, đoàn cán bộ của Viện Mác – Lênin do GS. Đặng
Xuân Kỳ giữ chức Viện trưởng, đến sưu tầm tư liệu để thực hiện Bộ Hồ Chí Minh-biên niên tiểu sử đã phát hiện được. Một thành viên trong đoàn, bấy giờ là P.TS Nguyễn Văn Khoan đã được phép ghi lại, báo cáo xin đưa vào Hồ Chí Minh – biên niên tiểu sử, tập 2, nhưng có nhiều ý kiến tranh luận.
Ít lâu sau, P.TS Nguyễn Văn Khoan có viết
bài “giới thiệu” nhưng không báo nào đăng. Phải chờ cho đến năm cuối
cùng của thế kỷ XX, sự kiện này mới được phép công bố công khai.
Một số tư liệu nước ngoài cũng có đề cập đến sự kiện này:
1. Đại sứ Ba Lan tại Ủy ban Quốc tế giám
sát Hiệp định Giơnevơ năm 1954, kể lại trong hồi ký của mình rằng “cuối
năm 1954, trước khi vào Sài Gòn, tôi tới chào Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi
tiễn tôi ra cửa, Chủ tịch nói: “Nhờ đại sứ chuyển lời hỏi thăm của tôi
tới Ông (chú ý: Chủ tịch không nói Tổng Thống
– NV) Ngô Đình Diệm”. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, Chủ tịch nói tiếp: Ông
Diệm là người Việt Nam. Là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước.
Ông ấy yêu nước theo cách của ông” (nguyên văn tiếng Pháp “à sa
manière).
2. GS. Lê Xuân Khoa, trong Việt Nam 1945-1975, Nxb Tiên Rồng Hoa Kỳ, 2004, tr. 379, trong chương Sai lầm của Việt Nam cộng sản viết:
“Tháng 9/1945 (sau ngày 23/8/1945 – ngày Phạm Quỳnh bị “xử tử” (sự thật là bị bắt
– PT chú) Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt trên đường từ Sài Gòn ra Huế.
Tại Huế, ông được (biết) anh ruột ông là Ngô Đình Khôi và con trai của
ông Khôi là Ngô Đình Huân bị Việt Minh hạ sát (cùng với Phạm Quỳnh).
Sáu tháng sau (Lê Xuân Khoa nhầm: Ngô
Đình Diệm gặp Bác vào tháng 1/1946), Hồ Chí Minh hạ lệnh đưa ông Diệm về
Hà Nội với mục đích mời ông Diệm tham gia chính phủ liên hiệp. Stanley
Karnow (tác giả sách Lịch sử Việt Nam (Viet Nam a history – New York, 1991 – NV) ghi lại câu chuyện này theo lời kể của ông Diệm.
“Ông Diệm: Ông muốn tôi làm gì?
Ông Hồ: Tôi
muốn ông làm chuyện ông vẫn muốn tôi làm, tức là hợp tác để tranh đấu
cho đất nước được độc lập. Chúng ta cùng theo đuổi một mục đích, chúng
ta cần phải làm việc với nhau.
Ông Diệm: Ông có tội… ông đã bắt giam tôi.
Ông Hồ: Tôi xin
lỗi về chuyện đáng tiếc đó. Khi dân chúng bị ức hiếp nổi dậy, lỗi lầm
không thể tránh được và chuyện bi thảm xảy ra. Nhưng tôi vẫn luôn luôn
tin rằng, hạnh phúc của nhân dân vượt lên trên những lỗi lầm đó. Ông có
những điều oán hận chúng tôi, ta hãy nên quên đi.
Ông Diệm: Ông muốn tôi quên những người của ông đã giết chết anh tôi sao?
Ông Hồ: Tôi
không biết gì về chuyện đó. Tôi không dính dấp gì đến cái chết của anh
ông. Tôi cũng buồn phiền như ông về những chuyện quá đáng ấy. Làm sao
tôi có thể làm một chuyện như thế khi tôi cho mời ông đến đây? Không
những thế, … tôi muốn mời ông giữ một chức vụ quan trọng trong chính
phủ.
Ông Diệm: Anh tôi và cháu trai tôi chỉ là hai người bị giết… Sao mà ông dám mời tôi làm việc với ông?
Ông Hồ: Đầu óc ông chỉ nghĩ đến chuyện đã qua, ông hãy nghĩ tới tương lai, chuyện giáo dục, chuyện cải thiện mức sống nhân dân.
Ông Diệm: Tôi
làm việc vì lợi ích của quốc gia nhưng không chịu áp lực. Tôi là một
người tự do. Tôi sẽ luôn luôn là người tự do. Ông nhìn… tôi coi. Tôi có
phải hạng người sợ áp bức hay sợ chết không?
Ông Hồ: Ông là một người tự do.
Và sau đó, Chính phủ Hồ Chí Minh đã trả tự do cho Ngô Đình Diệm.”
3. Ngày 7/5/2012, ông Ngô Trần Đức, một nhà nghiên cứu Việt Nam đã viết bài Cụ Hồ, con người và phong cách,
tải lên mạng internet. Bài được in ra trên trang A4, dày tới 25 trang,
trang 16 ông Ngô Trần Đức viết: “Cùng thời gian đó, vào cuối năm 1945,
Ngô Bình Diệm bị quân dân ta bắt ở Nam Trung Bộ, giải ra Hà Nội. Biết
việc này, với tư cách Chủ tịch Chính phủ… ngày 15/1/1946, Cụ tiếp riêng
Ngô Đình Diệm tại Bắc Bộ phủ, thuyết phục ông Diệm đi với nhân dân, tham
gia vào việc nước. Nhưng ông Diệm từ chối, tuyên bố “sẽ vẫn tiếp tục
chống Pháp nhưng không thể đi với Việt Minh”. Nhiều cán bộ giúp việc
quanh cụ, không đồng tình, cho rằng ông Diệm là người thân Nhật, rất
nguy hiểm, Cụ Hồ nói: Nếu ông ta thân Nhật thì Nhật đã tan tành rồi, còn
chỗ nào mà thân nữa. Còn ông ta nói vẫn còn chống Pháp, nhưng không đi
với Việt Minh, thì cứ thả ông ra, để ông ấy chống Pháp theo kiểu của ông
ấy!”
Ông Ngô Trần Đức viết tiếp: “Cuộc tiếp
kiến đã để lại cho ông Diệm một ấn tượng sâu sắc. Có lẽ vì vậy mà con
người chống cộng cực đoan này chưa một lần nào thất lễ với Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Sau này, trong một cuộc trò chuyện thân mật với anh Hai Nhạ
(cán bộ tình báo của Việt Nam) tại dinh Gia Long, ông Diệm vẫn nhớ lại
hình ảnh mảnh dẻ, giản dị, phong sương của Cụ Hồ trong buổi tiếp. Cụ mặc
quần “soóc”, chân đi dép cao su trắng với điếu thuốc lá trên môi, lời
nói và cử chỉ rất mực lịch thiệp. Ông Diệm có thể thốt ra với Vũ Ngọc
Nhạ một câu: “Cụ Hồ là bậc đại nghĩa, còn qua là người tiểu khí. Nhưng
nếu qua nhận lời cộng tác với Cụ Hồ thì qua biết ăn nói thế nào với dòng
họ Ngô về cái chết của anh qua và cháu qua bởi tay Việt Minh”. Câu
chuyện này là do ông Trần Quốc Hương, tức Mười Hương, nguyên Bí thư
Trung ương Đảng, người trực tiếp chỉ đạo mạng tình báo chiến lược ở miền
Nam thời chống Mỹ, trong đó có Vũ Ngọc Nhạ, nói với ông Ngô Trần Đức,
đầu năm 2004.
Qua một số tư liệu trên, bạn đọc có thể tìm ra được nhiều “kết luận”, ví dụ:
- Gia đình Phạm Quỳnh đã “đại khí” mà
không “tiểu khí” như Ngô Đình Diệm. Dù ông, cha… là Phạm Quỳnh bị “xử
lý” nhưng con, cháu vẫn đi theo Việt Minh, theo Cụ Hồ, góp phần xuất sắc
vào sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước.
- Cụ Hồ “không biết gì về chuyện” bắt và
bắn Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân, Phạm Quỳnh và Cụ rất “buồn phiền” về
những chuyện quá bi thảm ấy.
- Với Ngô Đình Diệm, Cụ Hồ còn có ý định
“mời ông Diệm giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ” (như giáo dục, cải
thiện mức sống nhân dân…) mặc dù ông Diệm “thân Nhật”, nhưng “chống
Pháp”, dù đã làm đến Thượng Thư – như Phạm Quỳnh dưới triều Bảo Đại +
thực dân Pháp như Phạm Quỳnh – nhưng chống Pháp như Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh còn “hơn điểm” ở chỗ không
thân Nhật mà chống Nhật, có thể nếu không bị “xử lý” cũng được mời “giữ
một chức vụ quan trọng trong chính phủ Cụ Hồ?”
“Thật là không may cho Thượng Chi – Phạm Quỳnh, không may cho gia đình Cụ Phạm” (lời của Cụ Hồ) và cả dòng họ Phạm.
Chỉ có thể kết luận được thế thôi chăng…?
H.G.
*
* *
Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 3) của nhà xuất bản Từ điển Bác khoa Hà Nội, 2003, trang 127-128 viết:
Ngô Đình Diệm (1901-63),
tổng thống của Chính quyền Sài Gòn (1955-63). Quê: làng Đại Phong,
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Xuất thân từ một gia đình quan lại cao
cấp triều Nguyễn, theo đạo Thiên Chúa. Tốt nghiệp Trường Hậu bổ (1920),
làm quan ở các tỉnh Miền Trung (Thừa Thiên, Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình
Thuận). Thượng thư Bộ Lại trong triều đình Bảo Đại (1933), đại thần Việt
Cơ mật. Vì tranh chấp với Phạm Quỳnh nên đã từ chức thượng thư Bộ Lại
(1934), gia nhập phe Cường Để. Không được Nhật chọn làm thủ tướng của
chính phủ thân Nhật. Sau Cách mạng tháng Tám, bị lực lượng cách mạng bắt
giữ; được phóng thích, về sống ẩn dật với Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt. Sang
Mĩ (1950), được đào tạo ở các chủng viện, ở Đại học Michigân (Michigan).
Do áp lực của Mĩ, Ngô Đình Diệm được Bảo Đại đưa lên làm thủ tướng
(7/1954) thay cho Bửu Lộc. Năm 1955, thực hiện cuộc “trưng cầu dân ý”
giả hiệu để lật đổ Bảo Đại. Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống của Chính
quyền Sài Gòn, ráo riết thực hiện mưu đồ chia rẽ lâu dài đất nước, chống
phá cách mạng, thực hiện âm mưu của Mĩ biến Miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới, ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng Việt Nam sang Đông
Nam Á, làm bàn đạp tiến công Miền Bắc Việt Nam. Tuy vậy, Ngô Đình Diệm
vẫn không đáp ứng được yêu cầu thực thi chính sách thực dân mới của Mĩ
nên Mĩ đã đưa một số tay sai mới làm cuộc đảo chính (1.11.1963) giết
chết anh em Diệm, Nhu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét