Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Thủ tướng Tôn Vận Tuyền - Thư gửi con

Thủ tướng Tôn Vận Tuyền - Thư gửi con

Đọc bức thư của Ông thủ tướng Đài Loan ( Tôn Vận Tuyền) gửi con, Mới hiểu vì sao Đài Loan thành công như thế.
Con trai yêu dấu!
Đời người phúc họa vô thường! Không một ai biết trước mình sẽ sống được bao lâu. Có một số việc tưởng nên sớm nói ra thì hay hơn.
Cha là cha của con, nếu cha không nói với con, có lẽ không ai nói rõ với con những điều này!
Những lời khuyên để con ghi nhớ này, là kết quả bao kinh nghiệm xương máu, thất bại đắng cay trong cuộc đời, mà bản thân cha đã trải nghiệm. Nó sẽ giúp con tiết kiệm nhiều những nhầm lẫn hoang phí trên bước đường trưởng thành của con sau này.
                 >>  Một lá thư đáng đọc   
Thủ tướng Tôn Vận Tuyền
 (1913 - 2006)
Dưới đây là những điều con nên ghi nhớ trong cuộc đời:
- Nếu có người đối xử không tốt với con, đừng bận tâm cho mất thời giờ. Trong cuộc đời này, không ai có nghĩa vụ phải đối xử tốt với con, ngoại trừ Cha và Mẹ của con. Nếu có người đối xử tốt với con, ngoài việc con phải biết ơn và trân quý, con cũng nên thận trọng suy xét, vì người đời làm việc gì thường có mục đích và nguyên nhân. Con chớ vội vàng xem đối phương là chân bằng hữu .
- Con có thể yêu cầu mình phải giữ chữ TÍN, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ TÍN với mình. Con có thể yêu cầu mình phải đối xử TỐT với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử TỐT với con. Con đối xử người ta thế nào, không có nghĩa là nguời ta sẽ đối xử lại mình như thế ấy, nếu con không hiểu rõ được điểm này, sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình mai sau.
- Trên đời không phải không có người nào mà không thể thay thế được, không có vật gì mà nhất định mình phải sở hữu được. Con nên hiểu rõ ở điểm này. Nếu mai sau rủi người bạn đời không còn muốn cùng con chung sống, hoặc giả con vừa mất đi những gì trân quý nhất trong đời, thì con nên hiểu rằng: Đây cũng không phải là chuyện lớn lao gì cho lắm!
- Trên đời này chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chỉ qua là một cảm xúc nhất thời. Cảm giác này tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh mà thay đổi. Nếu người yêu rời xa con, hãy nhẫn nại chờ đợi , để thời gian từ từ gột rửa, để tâm tư mình dần dần lắng đọng thì nỗi đau thương cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi . Không nên cứ ôm ấp hoài niệm mãi cái ảo ảnh yêu thương, cũng không nên quá bi lụy vì tình.
- Đời người ngắn ngủi, nếu hôm nay con đã lãng phí thời gian, mai đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi! Cho nên càng biết trân quý sinh mạng của mình càng sớm, thì con sẽ được tận hưởng cuộc đời mình càng nhiều hơn. Trông mong được sống trường thọ, chi bằng con cứ tận hưởng cuộc đời mình ngay từ bây giờ.
- Cha không yêu cầu con phải phụng dưỡng cha trong nửa quãng đời còn lại. Ngược lại, Cha cũng không thể bảo bọc nửa quãng đời sau này của con, khi mà con đã trưởng thành và tự lập. Đây là lúc Cha đã làm tròn trách nhiệm của mình. Sau này con có đi xe buýt hay đi xe hơi riêng; ăn súp vi cá hay ăn mì gói, tự con lo liệu lấy.
- Gia đình thân nhân chỉ là duyên phận một đời. Bất luận trong kiếp này chúng ta sống chung với nhau được bao lâu và như thế nào, nên trân quý khoảng thời gian sum họp, gia đình đoàn tụ. Kiếp sau, dù ta có thuơng hay không, cũng không chắc sẽ còn gặp lại nhau.
- Tuy có nhiều người thành công trên đường đời mà học hành chẳng đến đâu. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là không cần học hành mà vẫn thành công. Kiến thức đạt được do việc học hành, là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, nhưng không thể thiếu sự hiểu biết. Nên nhớ kỹ điều này!
- Hơn mười mấy, hai mươi mấy năm nay, Cha tuần nào cũng mua vé số, nhưng đến nay, ngay đến giải 3 vẫn chưa từng trúng. Điều này chứng tỏ rằng: Muốn phát đạt phải siêng năng làm ăn, nỗ lực phấn đấu chứ không phải chờ đợi điều may mắn đến với con. Trên thế gian này không có buổi ăn trưa nào miễn phí cả. Nếu may mắn có đến với con, đấy là điều tốt, còn nếu không thì cũng chẳng có vấn đề gì, bởi tất cả phải dựa vào chính bản thân con.
- Con hãy BIẾT ƯỚC MƠ, nhưng để trở thành hiện thực thì ước mơ đừng xa rời thực tế, đừng hão huyền và ảo tưởng. Con phải LUÔN CÓ NIỀM TIN. Không chỉ là niềm tin vào chính bản thân mình mà con cũng cần có niềm tin vào mọi người, niềm tin vào cuộc sống. Nếu không có niềm tin, con sẽ chẳng thể làm được việc gì. Công việc, cuộc sống đôi lúc sẽ có những khó khăn, trở ngại đòi hỏi con phải LUÔN NỖ LỰC. Để có được những thành công thì không thể thiếu sự cố gắng và say mê, con ạ. Hãy nhớ rằng THÀNH CÔNG KHÔNG PHẢI LÀ MỘT ĐÍCH ĐẾN MÀ LÀ MỘT QUÁ TRÌNH. Vì thế, con hãy tiếp tục ước mơ, tiếp tục tin tưởng và không ngừng nỗ lực, con nhé. 

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

Dương Chí Dũng vẫn được nhận lương trong 2 năm ngồi tù

Dương Chí Dũng vẫn được nhận lương trong 2 năm ngồi tù

Đại diện Vụ Tổ chức cán bộ Bộ GTVT xác nhận, từ khi bị khởi tố (tháng 5/2012), bắt giam (tháng 9/2012) đến khi bị TAND TC kết án tử hình, cựu Chủ tịch Vinalines, cựu Cục trưởng Cục Hàng hải vẫn được trả lương, chí ít là trên 5 triệu đồng/tháng.
Trao đổi về việc nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Dương Chí Dũng chỉ vừa nhận quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc từ Bộ GTVT cách đây ít ngày vì vi phạm pháp luật tại TCty Hàng hải (Vinalines) sau khi nhận án tử hình “chung cuộc”, Bộ trưởng Đinh La Thăng không giấu thái độ không hài lòng với việc xử lý quá… thận trọng của Bộ. 
Dùng từ “vô duyên” để nói về việc quyết định buộc thôi việc đến thời điểm này mới được chính thức đưa ra, Bộ trưởng Đinh La Thăng cũng giải thích, Bộ GTVT đã vận dụng đúng nguyên tắc quy định của pháp luật “một người chưa bị coi là có tội khi toà chưa tuyên án, bản án chưa có hiệu lực pháp luật”. Tuy nhiên, ông Thăng cũng đánh giá, cách hiểu như vậy “hơi máy móc” vì không cần chờ kết quả xử lý hình sự vẫn có thể xử lý kỷ luật hành chính đối với cán bộ vi phạm. 
“Quyết định thành ra vô duyên vì giờ mới thi hành kỷ luật buộc thôi việc với một người đã thành án tử hình thì rất hình thức” – thẳng thắn nhận xét, Bộ trưởng GTVT diễn giải thêm, ông bất bình khi cấp dưới trình ký quyết định buộc thôi việc với cựu Cục trưởng Dương Chí Dũng vì thấy chuyện… quá vô lý. 
Câu hỏi về vấn đề chế độ đối với Dương Chí Dũng trước khi có quyết định buộc thôi việc được chuyển đến Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ GTVT. Người đại diện của Vụ Tổ chức cán bộ xác nhận, việc trả lương cho cựu Cục trưởng Cục Hàng hải vẫn duy trì từ thời điểm Dương Chí Dũng bị bắt (ngày 5/9/2012) cho tới khi có bản án kết tội bị cáo có hiệu lực pháp luật. Dù quyết định buộc thôi việc xác định thời điểm có hiệu lực thi hành là từ 10/6 nhưng thời điểm TAND tối cao tuyên án phúc thẩm là coi như có đủ căn cứ khẳng định hành vi vi phạm pháp luật của Dương Chí Dũng. 
Việc trả lương cho cựu Cục trưởng Cục Hàng hải vẫn duy trì trong 2 năm trước đó được giải thích là căn cứ theo khoản 1 Điều 24 Nghị định 34 năm 2011 quy định, trong thời gian tạm giữ tạm giam để thực hiện công tác điều tra truy tố xét xử hoặc tạm đình chỉ công tác để xét kỷ luật thì cán bộ được hưởng 50% lương theo ngạch, bậc cộng với phụ cấp lãnh đạo, phụ cấp thâm niên (nếu có). 
Như vậy, tính toán sơ bộ, ít nhất mỗi tháng Dương Chí Dũng vẫn nhận được trên 5 triệu đồng tiền lương, trong suốt hơn 2 năm qua. 
Ngoài ra, sau khi bị buộc thôi việc, chế độ bảo hiểm của cựu Cục trưởng Cục Hàng hải cũng vẫn được cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết theo quy định. 
Trao đổi thêm về việc này, đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ Cương – nguyên Chánh Thanh tra Bộ Nội vụ - xác nhận, pháp luật hiện hành không có quy định rõ ràng về thời điểm xử lý kỷ luật, buộc thôi việc đối với cán bộ khi vi phạm pháp luật. Vì vậy, thường khi có bản án của tòa đã có hiệu lực của toà án, cơ quan quản lý cán bộ “dính chàm” mới thực hiện quyết định buộc thôi việc cho… chắc chắn. 
Thực tế, đã có nhiều cơ quan vướng vào việc có cán bộ bị khởi tố, bắt bắt, điều tra, truy tố nhưng khi ra tòa xử lại không kết luận được tội, phải mất công khôi phục quyền lợi cho cán bộ sau đó nên để “chắc ăn”, đến nay, các cơ quan thường chờ khi có bản án cuối cùng của tòa mới thực hiện quyết định xử lý kỷ luật. (Ngay tại Bộ GTVT, trường hợp của cựu Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến trong vụ án PMU18 trước đây cũng đã xảy ra những vướng mắc tương tự - PV). 
Tuy nhiên, với trường hợp của Dương Chí Dũng, ông Nguyễn Sỹ Cương cho là có thể tiến hành xử lý hành chính sớm hơn vì cựu Cục trưởng Cục Hàng hải đã trải qua cả quá trình từ lúc chạy trốn rồi bị bắt, bị điều tra… Theo đó, ngay sau khi có quyết định truy tố, ông Cương cho rằng thời điểm đó đã có thể thực hiện quyết định xử lý kỷ luật về hành chính. 
“Đáng ra xử lý như thế sẽ hay hơn là chờ đến giờ, bị cáo bị bắt, đi tù đến 2 năm nay rồi, tòa tuyên tử hình đến lần thứ 2 rồi mới ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc” – ông Cương phân tích, vì việc xử lý chậm này nên việc trả lương cho Dương Chí Dũng trong khoảng thời gian trước khi có quyết định buộc thôi việc vẫn phải thực hiện như quy định. 
P.Thảo/Dân trí

Trung Quốc và quá trình ký kết Hiệp định Genève 1954

Trung Quốc và quá trình ký kết Hiệp định Genève 1954


               HỒ KHANG
            “Cả hai nhà ngoại giao Liên Xô, Trung Quốc Molotov và Chu Ân Lai đã sẵn sàng hy sinh chiến thắng quân sự của Hồ Chí Minh phục vụ lợi ích quốc gia của mình” - Thượng nghị sĩ Mỹ William Knowland bình luận về Hiệp định Genève.
1. Cục diện đối đầu Đông - Tây và chính sách đối ngoại của Trung Quốc 
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ đồng minh bất đắc dĩ  Xô - Mỹ nhanh chóng tan vỡ, hai nước chuyển sang trạng thái đối đầu quyết liệt, cạnh tranh sức mạnh ở cả vũ đài trung tâm lẫn ở vùng ngoại vi. Bước ra từ Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất, có thể nói bằng tất cả các nước tư bản cộng lại. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ có những kế hoạch to lớn trên con đường trở thành siêu cường có khả năng định hướng toàn cầu. Mùng 6-4-1946, Tổng thống Mỹ Truman tuyên bố: “Ngày nay, Hoa Kỳ là quốc gia mạnh, nghĩa là với một sức mạnh như thế, chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới” [1]. Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nhìn nhận hoạt động củng cố vòng cung an ninh châu Âu của Liên Xô như “sự thống trị lục địa bởi một quốc gia duy nhất và thù địch với Mỹ, có thể đe dọa đến an ninh quốc gia của Mỹ” [2]. Trên thực tế, các nước ở Trung, Đông Âu sau khi được giải phóng, dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, đều đã lựa chọn con đường dân chủ nhân dân. Đó là một đảm bảo để Liên Xô củng cố địa vị của mình tại trung tâm thế giới - châu Âu; đồng thời, mở rộng ảnh hưởng ra những khu vực khác. Năm 1949, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời đã tạo nên sự thay đổi đáng kể trong cán cân lực lượng trên vũ đài quốc tế. Như thế, chính điểm tương đồng về mục tiêu chiến lược của cả Mỹ và Liên Xô đã đẩy hai nước trôi về hai cực đối lập, trở thành đối thủ không khoan nhượng, hình thành cục diện Đông – Tây với bầu không khí Chiến tranh Lạnh bao trùm toàn cầu. Trong tình thế xung đột, mâu thuẫn, Chiến tranh Triều Tiên (1950) bùng phát, nhanh chóng trở thành đỉnh cao đối đầu, nơi đọ sức quyết liệt giữa hai phe trên nền "trật tự Yalta".
Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc duy trì quan hệ thường xuyên và tương đối chặt chẽ với Liên Xô. Ít tháng trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, Lưu Thiếu Kỳ có một vài chuyến đi bí mật tới Liên Xô. Tại cuộc hội đàm với Lưu Thiếu Kỳ (7-1949), I.V.Stalin nhiệt thành khuyến khích Trung Quốc có một vai trò lớn hơn trong thúc đẩy làn song cách mạng ở châu Á và Đông Á [3]. Trong cuộc gặp tháng 8-1949, khi thảo luận về sự cần thiết phải tiến hành "cách mạng thế giới", nhất trí cao về vị trí trung tâm cách mạng của Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ và I.V.Stalin thỏa thuận thừa nhận vai trò đầu tàu đối với cách mạng phương Đông của Trung Quốc [4].
Thực hiện trách nhiệm “gánh vác” phong trào cách mạng khu vực Đông Á, xác định lợi ích an ninh quốc gia trong bối cảnh xung đột Đông – Tây, khi chiến tranh Triều Tiên là biểu hiện tập trung nhất của mâu thuẫn giữa hai phe xã hội chủ nghĩa - tư bản chủ nghĩa, tháng 10-1950, Trung Quốc đưa Quân chí nguyện trực tiếp tham chiến trên chiến trường Triều Tiên. Giương cao ngọn cờ chống đế quốc, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, cũng từ năm 1950, Trung Quốc tích cực giúp đỡ Việt Nam DCCH kháng chiến chống Pháp, xem “cuộc kháng chiến ở Việt Nam do Đảng Việt Nam lãnh đạo rất đúng và rất hay. Đảng Trung Quốc hết sức giúp đỡ Đảng Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ đó” [5].
Như vậy, với nhận thức "các vấn đề trung tâm trong thế giới sau Thế chiến thứ hai là cách mạng vô sản trên phạm vi toàn cầu” [6] và ý niệm về vai trò, trách nhiệm của mình đối với phong trào cách mạng châu Á; đồng thời, nhằm khẳng định vị thế trong phong trào cách mạng khu vực, dần dần đặt dấu ấn nước lớn với thế giới, ngoài nhiệm vụ xây dựng đất nước, Trung Quốc đã phải dàn lực ra hai hướng, hỗ trợ cho Bắc Triều Tiên và Việt Nam DCCH. Kết quả là chiến tranh Triều Tiên đã cướp đi sinh mạng của gần 1.000.000 Chí nguyện quân, để lại thương tật cả đời cho hàng triệu người và gây ra những thiệt hại to lớn về vật chất. Năm 1950, 52% chi tiêu tài chính quốc gia của Trung Quốc là chi phí quân sự, trong đó 60% dành cho viện trợ chiến tranh chống Mỹ; đến năm 1952, tuy chiến tranh đã bước vào giai đoạn giằng co, chi phí quân sự vẫn chiếm tới 33% tổng chi tiêu tài chính quốc gia, trong đó phần chủ yếu được dùng vào chiến tranh kháng Mỹ viện Triều [7]. Trong ba năm chiến tranh (1950-1953), Trung Quốc tiêu tốn mất khoảng 10 tỷ USD [8], kế hoạch 5 năm lần thứ nhất buộc phải hoãn lại, nợ Liên Xô 650 triệu USD [9] - một gánh nặng đối với nền kinh tế vốn lạc hậu, đang cần nguồn lực phát triển của Trung Quốc. Không chỉ có vậy, những năm 1950-1953, cải cách ruộng đất và chiến dịch chống “phản cách mạng” đã để lại hậu quả vô cùng to lớn trong lòng xã hội Trung Quốc [10].
Dù đang phải đối mặt với một số khó khăn, song bằng vai trò tích cực trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và việc giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, Trung Quốc đã kịp khẳng định: Nước Trung Quốc mới không chỉ đứng vững, mà còn đang lớn mạnh, từng bước thiết lập vùng ảnh hưởng của mình. Những yếu tố kể trên tác động trực tiếp tới việc xác định mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc; theo đó: 1- Mục tiêu tổng quát là ổn định và phát triển, hòa nhập vào hệ thống ngoại giao thế giới, từng bước khẳng định vị trí nước lớn ở khu vực cũng như trên thế giới; 2- Mục tiêu cụ thể là chống lại sự phong tỏa toàn diện của các nước tư bản, ngăn trở việc thành lập các liên minh quân sự, chính trị  các nước phương Tây song song với mở rộng khu vực đệm ở Nam Á và Đông Nam Á. Do vậy, chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương trở thành yêu cầu cấp bách của Trung Quốc và Trung Quốc phải có một vai trò nhất định trong việc giải quyết các vấn đề này, để qua đó vươn ra với thế giới, chứng minh một cách thuyết phục rằng, “trong rất nhiều vấn đề quốc tế to lớn, đầu tiên là vấn đề châu Á, nếu không có sự tham gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đều không giải quyết được” [11].

2- Trung Quốc chuẩn bị cho Hội nghị Genève
Ngay sau khi hiệp định ngừng bắn tại Triều Tiên được ký kết (27-7-1953), Liên Xô và Trung Quốc đều nhất trí rằng cần giải quyết hòa bình cuộc chiến ở châu Á. Trong xu thế hòa hoãn giữa các nước lớn, Liên Xô chủ trương thông qua đình chiến và đàm phán hòa bình dập tắt ngọn lửa chiến tranh, sau đó tiến hành cạnh tranh kinh tế với phương Tây. Tháng 11-1953, Liên Xô đề nghị tổ chức hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn tại Berlin vào tháng 1-1954 để thảo luận các vấn đề của châu Âu; đồng thời, đề nghị tổ chức hội nghị quốc tế bàn vấn đề Viễn Đông. Ngày 25-1-1954, Hội nghị Tứ cường khai mạc tại Berlin. Trong Hội nghị, Ngoại trưởng Liên Xô Molotov yêu cầu khi thảo luận các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương, phải có sự hiện diện của Trung Quốc, nêu rõ: “Trung Quốc đã trở thành lực lượng quan trọng trong cục diện chính trị thế giới, các hội nghị quốc tế quan trọng nhằm giải quyết các vấn đề châu Á nhất thiết phải có Trung Quốc tham gia” [12]. Tuy nhiên, đề nghị này của Liên Xô bị Mỹ phản đối quyết liệt. Sau rất nhiều tranh luận và thuyết phục, cuối cùng, ngày 18-2-1954, Hội nghị đồng ý để CHND Trung Hoa tham gia Hội nghị Genève, song Mỹ vẫn kiên quyết tuyên bố: “Việc Mỹ tham gia đàm phán không có nghĩa là Mỹ công nhận chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc với bất cứ ý nghĩa nào” [13].
Gấp rút thông báo kết quả cho Trung Quốc, Liên Xô chủ trương để Trung Quốc không những tham gia, mà còn phát huy tác dụng tích cực tại Hội nghị. Về điểm này, Trung Quốc hoàn toàn nhất trí với Liên Xô, bởi hai lý do: 1- Kể từ sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, đây là lần đầu tiên Trung Quốc có mặt tại một hội nghị quốc tế lớn được cả thế giới quan tâm theo dõi – điều đó sẽ rất có lợi trong việc đề cao địa vị quốc tế của Trung Quốc; 2- Nếu đàm phán tiến triển tốt, có thể giải quyết một số vấn đề quốc tế, còn nếu không thành công, cũng có thể tuyên truyền chủ trương của Trung Quốc [14].
Tích cực chuẩn bị cho “chuyến xuất quân ngoại giao” quan trọng, ngày 2-3-1954, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chu Ân Lai trình bày Báo cáo Ý kiến sơ bộ về những đánh giá đối với Hội nghị Genève và công tác chuẩn bị, nêu định hướng: “Tích cực tham gia Hội nghị Genève; đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa cấm vận cũng như chính sách huy động quân đội chuẩn bị chiến tranh của đế quốc Mỹ, thúc đẩy làm giảm căng thẳng trong cục diện quốc tế” [15]. Chu Ân Lai lên kế hoạch sử dụng diễn đàn Hội nghị Genève một cách có lợi nhất: “Ngoài những vấn đề về Triều Tiên và Việt Nam, phải chuẩn bị các vấn đề khác liên quan đến vùng Viễn Đông, đến hòa bình, an ninh ở châu Á. Đặc biệt, phải tiến hành các biện pháp nhằm phát triển quan hệ kinh tế, trao đổi thương mại với các quốc gia khác nhau, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa và cấm vận của đế quốc Mỹ” [16].
Ngay sau cuộc họp, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho Đảng Lao động Việt Nam, thông báo rằng Trung Quốc và Liên Xô đều nhận định việc tổ chức Hội nghị Genève sẽ có lợi cho Việt Nam, hy vọng Đảng Lao động Việt Nam tổ chức đoàn ba nước Đông Dương tham gia Hội nghị, chuẩn bị tài liệu, tập trung nỗ lực lên các phương án đàm phán. Trong bức điện, Chu Ân Lai gợi ý: “Nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định, có thể bảo đảm được một khu vực tương đối hoàn chỉnh (…). Việc xác định giới tuyến tại đâu, tại vĩ độ bao nhiêu cần phải xem xét từ hai vấn đề: Thứ nhất, là phải có lợi cho ViệtNam; thứ hai, xem kẻ thù có thể chấp nhận hay không. Đường giới tuyến này càng xuống phíaNam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ Bắc” [17]. Như vậy, Chu Ân Lai là người đầu tiên đề xuất lấy mô hình Triều Tiên – chia cắt thành hai miền, áp dụng cho trường hợp ViệtNam.
Ngày 3-3-1954, Tân Hoa Xã chính thức tuyên bố Chính phủ Trung Quốc sẽ tham gia Hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Cùng ngày, Chu Ân Lai lệnh cho Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Nhân dânTrung Quốc chỉ thị cho Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh (lúc này đang có mặt tại Điện Biên Phủ) trao đổi, xem xét để Việt Nam đánh tốt vài trận, phối hợp với đàm phán ở Genève. Ngay sau đó, Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc gửi điện cho Vi Quốc Thanh nêu yêu cầu: “Để giành thế chủ động về ngoại giao, trước Hội nghị Genève, Việt Nam tổ chức vài trận đánh thắng lợi. Các đồng chí nghiên cứu xem trong thời điểm hiện nay, liệu có khả năng chắc chắn đánh bại quân địch ở Điện Biên Phủ? Hoặc theo điện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương ngày 9/2, triệt để tiêu diệt quân địch tại khu vực giữa sông Nậm Rốm và sông Hồng, giải phóng khu vực đó, khai thông liên lạc với Lào; đồng thời, tại Trung - Hạ Lào hoặc khu vực Liên khu Năm, phát động tấn công phối hợp” [18].
Nhận thức cuộc chiến ở Điện Biên Phủ “rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế” [19], Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định tiến hành Chiến dịch Điện Biên Phủ vào ngày 13-3-1954. Sĩ quan tình báo Mỹ L. A. Patti nhận xét về thời điểm phát động và mục tiêu chiến dịch: “Cái pháo đài mới được tăng cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Genève sắp khai mạc. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thấy được một cách đúng đắn đây là một trận đánh có tính chất quyết định, không phải chỉ nhằm giành được một chiến thắng vang dội mà sẽ làm cho họ mạnh hẳn lên, họ đã chuẩn bị bao vây cứ điểm này” [20]. A. Patti phân tích rõ thêm: “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng còn nhằm đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp một đòn chí tử để gây tác động tâm lý đối với nước Pháp, làm nhân dân Pháp và những người chống cộng Việt Nam mất ý chí tiếp tục cuộc đấu tranh" [21].
Cùng với việc bắt đầu chiến dịch, Việt Nam DCCH tích cực chuẩn bị tổ chức đoàn đại biểu tham dự Hội nghị Genève, thảo luận sơ bộ các phương án sẽ nêu lên ở Hội nghị. Nghiên cứu đề nghị của Trung Quốc, trong quá trình thảo luận, vấn đề khó khăn nhất là việc xác định giới tuyến đình chiến và Việt Nam chưa nhất trí trong vấn đề này. Ngày 6-3-1954, Phó trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam Kiều Hiểu Quang gửi điện về Trung Quốc báo cáo tình hình: “Về quan hệ với Pháp, vấn đề Pháp rút quân, vấn đề bầu cử tự do đều nhận định rằng khó khăn không lớn. Khó khăn duy nhất và lớn nhất là xác định giới tuyến đình chiến, không biết quyết định ra sao (…). Họ cho rằng đây là vấn đế lớn nhất, khó nhất trong đàm phán. Lần thảo luận này chưa có kết luận gì (quyết định để bộ phận quân sự đưa ra phương án rồi nghiên cứu tiếp)” [22].
Trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Genève, Trung Quốc duy trì liên lạc chặt chẽ với Liên Xô. Riêng trong tháng 4-1954, đã diễn ra ba cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai với các nhà lãnh đạo Xô-viết. Chu Ân Lai luôn nhấn mạnh: “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tham gia một hội nghị như vậy, nên thiếu kiến thức và kinh nghiệm đấu tranh quốc tế, do đó Trung Quốc và Liên Xô cần giữ liên hệ chặt chẽ, thường xuyên trao đổi ý kiến, thông tin tình báo, hiệp đồng hành động”[23]. Nhìn chung, trong các cuộc hội đàm, Chu Ân Lai cùng với các nhà lãnh đạo Liên Xô đi sâu xác định phương châm, đối sách của hai bên cũng như các hoạt động phối hợp về ngoại giao, nhất trí để phía Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm phán ở Genève, kiên trì phương hướng giải quyết vấn đề Đông Dương: “Vĩ tuyến 16 độ Bắc có thể được coi là một trong những phương án để xem xét”[24]. Trong cuộc thảo luận có mặt đại diện Liên Xô, Việt Nam tại Matxcơva, Chu Ân Lai phát biểu: “Hy vọng rằng, trong thời gian diễn ra Hội nghị, hoặc tốt nhất là trước khi khai mạc Hội nghị, quân đội Việt Nam có thể đánh thắng tại Điện Biên Phủ. Nếu quả đúng như vậy, sẽ giúp phe phương Đông chiếm được vị trí rất có lợi tại bàn đàm phán” [25].
Suốt tháng 3 và nửa đầu tháng 4-1954, Chu Ân Lai đích thân thụ lý, chỉnh sửa và thẩm định các văn bản liên quan đến Hội nghị Genève như “Ý kiến sơ bộ về phương án hòa bình thống nhất Triều Tiên”, “Ý kiến sơ bộ về giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương”…; đồng thời, chuẩn bị nhân sự cho Đoàn Ngoại giao. Ngày 20-4-1954, Đoàn đại biểu gồm hơn 200 người [26], tập trung nhân tài ưu tú của ngành ngoại giao Trung Quốc khởi hành đi Genève. Chu Ân Lai tự hào nói về chất lượng của Đoàn đại biểu: “Đây giống như một vở diễn lớn của Mai Lan Phương [27], mỗi một người là một bộ phận hoàn hảo, tạo nên một khối thống nhất mạnh mẽ” [28]. Đoàn đại biểu Trung Quốc đến bàn đàm phán với tinh thần: “Trung Quốc là một nước lớn, đến Genève tham gia một hội nghị quốc tế chính thức. Chúng ta đứng trên vũ đài quốc tế hát kịch văn. Vì thế, trong kịch văn phải có kịch võ, nhưng nói tóm lại là kịch chính quy, kịch võ đài” [29].
Quá trình chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, toàn diện và cẩn trọng cho sự xuất hiện ở “vũ đài” Genève không chỉ cho thấy những mục đích quan trọng, sâu sa của Trung Quốc tại đó, mà còn phản ánh quyết tâm cao độ thực hiện kỳ được những mục đích này.

3- Trung Quốc tại Hội nghị Genève
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc, trùng với thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ đang là tâm điểm chú ý của thế giới. Tin tức dội về từ Điện Biên Phủ khiến Chu Ân Lai bước vào Hội nghị với gương mặt mỉm cười, còn Ngoại trưởng Pháp Bidault lại có tâm trạng hết sức căng thẳng.
Xác định Mỹ là đối thủ nguy hiểm, Trung Quốc không hề muốn thấy sự hiện diện của Mỹ tại Đông Dương; vì thế, “tham gia đàm phán, Trung Quốc cố gắng để người Pháp vẫn có thể giữ một vị trí nào đó ở Đông Dương, không để Mỹ thế chân Pháp” [30]. Ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là “ngăn chặn Mỹ đưa lực lượng quân sự vào Việt Nam, áp sát biên giới Trung Quốc” [31]. Trong cuốn sách Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,tác giả Dương Khuê Tùng phân tích như sau: “Triều Tiên đình chiến, thái độ của Trung Quốc mới đối với cuộc chiến tranh Đông Dương nhanh chóng trở thành một vấn đề buộc phải cân nhắc. Bởi vì, cũng giống như chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Đông Dương sẽ thực sự trở thành một điểm nóng đối kháng giữa Trung Quốc và Mỹ” [32]. Trung Quốc e ngại rằng, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Mỹ tất yếu sẽ dồn sự chú ý nhiều hơn đến Đông Dương, khả năng xảy ra cuộc đụng độ giữa Trung Quốc và Mỹ tại đây tăng lên đáng kể. Một nước Trung Quốc thương tích đầy mình đứng trước nhiệm vụ khôi phục và xây dựng kinh tế hết sức nặng nề không/chưa thể dính líu vào một cuộc xung đột với đối thủ đáng gờm, nặng ký là Mỹ - đó chính là xuất phát điểm quan trọng để ngay từ rất sớm, Chu Ân Lai luôn khăng khăng với “phương án vĩ tuyến 16” theo mô thức Triều Tiên làm hình mẫu cho Việt Nam. Ngoài ra, “coi Hội nghị Genève như một phương tiện mở cửa sang thế giới phương Tây”[33], lần đầu tiên có mặt tại một hội nghị quốc tế lớn với tư cách là một quốc gia châu Á tham gia giải quyết vấn đề khu vực, ngoài vấn đề Triều Tiên và Việt Nam, Trung Quốc còn quan tâm đến các vấn đề an ninh, hòa bình tại Viễn Đông, châu Á, các vấn đề phát triển kinh tế, giao thương mậu dịch với phương Tây, từng bước phá vỡ cấm vận, phong tỏa của Mỹ một cách hiệu quả.Hoạt động của Trung Quốc tại Genève, vì thế, tất yếu được tính toán sao cho phù hợp để có thể đáp ứng mục tiêu đó.
Toan tính của các nước lớn khiến Hội nghị Genève về Đông Dương diễn ra căng thẳng, gay go, quyết liệt trong suốt 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp. Trong Hội nghị, Liên Xô duy trì chặt chẽ quan hệ với Trung Quốc làm đối trọng, thúc đẩy đàm phán theo những kế hoạch được sắp đặt trước. Hoạt động phối hợp của Liên Xô, Trung Quốc khá ăn ý. Suốt tiến trình Hội nghị, Trung Quốc hầu như đồng ý hoàn toàn với Liên Xô trong các vấn đề thương lượng. Để đảm bảo lợi ích quốc gia, với vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, trong điều kiện Pháp không muốn nói chuyện với Việt Nam ở thế yếu, trong xu thế hòa hoãn chung, “lãnh đạo đoàn đại biểu Trung Quốc Chu Ân Lai đã không hỗ trợ Việt Nam, đưa Việt Nam đến chỗ phải chấp nhận những điều khoản mà rõ ràng là không hề thoải mái chấp nhận” [34]. Nói cách khác, những thỏa thuận trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương đạt được giữa Đoàn Trung Quốc với phía Pháp không phản ánh được tình hình thực tế cũng như tương quan lực lượng trên chiến trường Việt Nam, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương nương theo "mẫu mực" Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị dứt điểm. Phân tích quan điểm, lập trường của Trung Quốc tại Hội nghị Genève, Giáo sư sử học Yang Kuisong (Đại học Bắc Kinh) lập luận: “MaoTrạch Đông tin rằng những nhượng bộ được thực hiện tại Genève là tạm thời và chiến thuật, bởi vì vào thời điểm đó, sức mạnh mọi mặt của Trung Quốc cần tiếp tục được củng cố và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa đủ sức để theo đuổi một thắng lợi hoàn toàn”[35].
5 giờ 20 phút ngày 21-7-1954, Hội nghị Genève về Đông Dương tuyên bố bế mạc. Cùng với việc Hiệp định Genève được ký kết, quan hệ Trung - Mỹ cũng thận trọng nhích dần từng bước – hai bên tổ chức hội nghị liên lạc viên lần một và lần hai, bảo lưu con đường tiếp xúc tại Genève. Đây chính là bước đệm thích hợp để sau này Trung, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc đàm phán cấp đại sứ [36]. Nhìn chung, Hội nghị Genève đã mang lại cho Trung Quốc những lợi ích to lớn:Về chính trị, Hội nghị chứng tỏ rằng, trên phương diện giải quyết những vấn đề quốc tế cấp bách, sự tham gia của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có vai trò quan trọng; về kinh tế, hai năm sau Hội nghị, khối lượng buôn bán giữa Trung Quốc với các nước châu Âu tăng rõ rệt, “kim ngạch giữa Trung Quốc với châu Âu tăng gấp đôi, nếu như tổng khối lượng đó năm 1954 là 173,4 triệu đô la, thì đến năm 1955 đã đạt 226,2 triệu và đến năm 1956 là 326 triệu” [37]; về đối ngoại, "việc ký kết Hiệp định Genèveđã đánh dấu sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc trong các công việc quốc tế và sự nâng cao địa vị quốc tế của Trung Quốc" [38]; đồng thời, “giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương đã làm rối loạn việc triển khai chiến lược của Mỹ nhằm uy hiếp Trung Quốc từ ba chiến tuyến Nam Triều Tiên, Đài Loan, Đông Dương, đảm bảo an ninh cho Trung Quốc ở biên thùy phía Nam, Trung Quốc có thể tập trung sức người, sức của vào phát triển kinh tế" [39]. Như vậy, nội dung bản Hiệp định Genève đảm bảo lợi ích cho mọi bên tham gia, đặc biệt là Trung Quốc, song mang lại lợi ích hạn chế đối với người chiến thắng. Wilfred Burchett nhận xét: “Thực tế Việt Nam là người chiến thắng không thể tranh cãi, nhưng đã “rộng lượng” nhân nhượng nhiều nhất ở Genève” [40]. Thật vậy, ViệtNam tuy thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu kinh nghiệm đàm phán, do thực lực chưa mạnh, nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam trên bản đồ thế giới” [41]. Người chiến thắng thực sự là Chu Ân Lai, “ông rời Genève gần như với tất cả mọi thứ đã được tiên liệu và dự đoán trước” [42]. Thượng nghị sĩ Mỹ William Knowland bình luận về kết quả Hội nghị Genève như sau: “Cả hai nhà ngoại giao Liên Xô, Trung Quốc Molotov và Chu Ân Lai đã sẵn sàng hy sinh chiến thắng quân sự của Hồ Chí Minh phục vụ lợi ích quốc gia của mình” [43]. Đó cũng chính là bài học lớn đầu tiên về mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc và phe phái - ý thức hệ mà Việt Nam DCCH rút ra từ sự ứng xử của những đồng minh/nước lớn trên con đường hội nhập đầy truân chuyên.
HK
____________
[1] Dẫn theo Đào Huy Ngọc: Lịch sử quan hệ quốc tế (1870 -1964), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1996, tr.119.
[2] Michael J. Friedman:Chiến tranh lạnh- Một cuộc kiểm tra đối với sức mạnh và sự thử thách đối với các ý tưởng của Hoa Kỳ,Tạp chí điện tử, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 4-2006.
[3] Chen Jian: The Sino-Soviet alliance and China's entry into the Korean War, Cold War International History ProjectBulletin, 6-7, p. 12.
[4] Chen Jian: China's Road to the Korean War: The Making of the Sino-American Confrontation, New York, Columbia University Press, 1994, pp.74-75.
[5] Tư liệu nghiên cứu về quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam 1949-1979, Cục Nghiên cứu Bộ Quốc phòng, bản đánh máy, t.1, tr. 29
[6] Directive of the Strategy of Struggle Against the U.S. and Jiang, 28 November 1945, United Front Department and the Central Archives of the CCP, ed., Zhonggong zhongyang jiefang zhanzheng shiqi tongyi zhanxian wenjian xuanbian, Beijing: Dang'an chubanshe, 1988, p. 32.
[7] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2, Nxb. Nhân dân Giang Tây, 2008, bản dịch Quốc Thanh.
[8] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Tlđd.
[9] Zhang Xiaoming: China, the Soviet Union, and the Korean War: From an Abortive Air War Plan to a Wartime Relationship,  Journal of Conflict Studies, vol 22, N01, 2002, p.81.
[10] Trong cải cách ruộng đất, khoảng 1.000.000-4.50.000 người bị giết, tầng lớp tinh hoa nông thôn hầu như bị diệt vong. Trong các chiến dịch đấu tranh chống “phản cách mạng”, khoảng 700.000 đến 2.000.000 người bị giết (Nguồn: Yang Kuisong: Reconsidering the Campaign to Suppress Counterrevolutionaries, The China Quarterly, 193, March 2008).
[11] Tạ Ích Hiển (chủ  biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Bản dịch của Tổng cục 2, lưu tại Tổng cục 2, tr.55.
[12] Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Beijing: History of CPC Press, 2005, p.20.
[13] Tạ Ích Hiển (chủ  biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Sđd, tr.55.
[14]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.24.
[15]Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the Geneva Conference,' Prepared by the PRC Ministry of Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai)[Excerpt]" March 02, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-Y0054, CWIHP.
[16]Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the GenevaConference,' Prepared by the PRC Ministry of Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai)[Excerpt]" March 02, 1954, Ibid.
[17]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.26.
[18]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.27
[19]Hồ Chí Minh: Thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 22-12-1953, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
[20]Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr.826.
[21]Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Sđd, tr.826.
[22]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.28.
[23]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.36.
[24]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.38.
[25]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.26.
[26]Đoàn đại biểu được chia làm sáu tổ: tổ về vấn đề Triều Tiên, tổ về vấn đề Việt Nam, vấn đề tổng hợp, tổ tin tức tuyên truyền, tổ thư ký và tổ giao tiếp hành chính, trong đó có thêm năm phiên dịch tiếng Nga, bốn phiên dịch tiếng Anh, bốn phiên dịch tiếng Pháp, ngoài ra còn có đầu bếp, lái xe, tổng cộng là 185 người, cộng thêm 29 nhà báo.
[27]Nghệ sĩ kinh kịch lừng danh Trung Quốc.
[28]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.42.
[29]Qian Jiang:Zhou Enlai and the Geneva Conference,  Ibid, p.50.
[30]Qiang Zhai: Chinaand Vietnam Wars, 1950-1975, Ibid, p.50.
[31]Allen Kempton: The People’s Republic of China and Vietnam: A Complex Relationship,  Essay Prize in History,
2012, p.5.
[32]Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Tlđd.
[33]Bộ Ngoại giao: Hội nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc làm ví dụ, Hội thảo nội bộ ngành "Hiệp định Giơnevơ: 50 năm nhìn lại", ngày 27-7-2004, tài liệu không phổ biến, lưu tại Bộ Ngoại giao.
[34]An analysis of Vietnam's relations with China from the beginning of the Cold War to the Present,Wilson Quarterly 19 (1), p.35.
[35]Yang Kuisong:Changesin Mao Zedong's Attitude towardthe Indochina War, 1949-1973, Ibid, p.4.
[36]Zhai Qiang: China and the Geneva Conference of 1954,The China Quarterly, No. 129 (Mar, 1992), p.122.
[37]Francois Joyaux:Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Sđd, tr.255.
[38]Bộ Ngoại giao: Hội nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc làm ví dụ, Tlđd, tr.4.
[39]Bộ Ngoại giao: Hội nghị Giơnevơ và quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh - lấy Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc làm ví dụ, Tlđd, tr.3.
[40]Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of  Wilfred Burchett, Ibid, p.199.
[41]Christopher E. Goscha:Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration ofVietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950), Journal of Vietnamese Studies, Vol I, N01-2, (February, August), 2006.
[42]Chen Jian: China and the First Indo-China War, 1950-54, The China Quarterly, No. 133 (Mar,1993), p.110.
[43]George C. Herring: America's Longest War: The United States and Vietnam 1950-1975 (New York: John Wiley & Sons, 1979, p.40. 
(Theo VHNA)

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

Về tự do báo chí - Phan Đăng Lưu - 1938

Dưới đây là bài viết của Phan Đăng lưu trên tờ BáoTiếng Dân (số ra ngày 19/1/1938).


Về tự do báo chí
Phan Đăng Lưu

Tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền,  vì nhiều lẽ:
 
1. Khi các báo được tự do xuất bản thì chỉ những tờ báo có dân chúng ủng hộ mới có thể sống, còn không thì chết hoặc sống ngắc ngoải, chẳng có ảnh hưởng gì đáng sợ.

2. Một tờ báo đã sống, đương nhiên nó đại diện cho một tầng lớp dân chúng, nó diễn đạt tất cả hoài vọng và chí hướng của đám dân ấy. Nhà cầm quyền muốn cai trị được hoàn thiện, không thể bỏ qua những hoài vọng hoặc chí hướng của đám dân này. Tất nhiên cũng cần đọc hết tờ báo ấy.

3. Một tờ báo nói vượt qua trình độ dân chúng, kêu gào dân chúng làm những việc tày trời không bao giờ dẫn đạo được dân chúng, sẽ bị dân chúng gạt qua bên mặt trận nghịch thù.

4. Một tờ báo sống một cách mạnh mẽ, có ảnh hưởng trong dân chúng, đưa ra những vấn đề trái ngược với quyền lợi của nhà cầm quyền, cũng chẳng có hại cho cuộc trị an. Nó chỉ là một tiếng còi báo trước cho chánh phủ hãy thay đổi chính sách cai trị đi để chuộc lòng dân.

Căn cứ vào những lẽ đó, chúng tôi quả quyết rằng tự do báo chí không bao giờ có hại cho nhà cầm quyền. Có hại chăng là một chánh sách cai trị hẹp hòi, đi ngược với sự tiến hóa của dân chúng mà thôi.

Báo DÂN TIẾN (số ra ngày 10/11/1938)
Ghi chú: 

Phan Đăng Lưu, (1902-1941) là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông tốt nghiệp Trường Canh nông và tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng) giữ chức uỷ viên Tổng bộ. Ngày 15 tháng 12 năm 1928, ông sang Trung Quốc để liên lạc với Tổng bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, sau gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tháng 9/1929, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt và bị đày đi nhà tù Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, ông tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế. Trong thời gian này ông đã viết nhiều bài báo, tác phẩm với bút danh Tân Cương, Phi Bằng.

Năm 1938, ông được bầu uỷ viên ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông dương và uỷ viên thường vụ trung ương. Tháng 11/1939, ông tham dự Hội nghị thứ VI (Hội nghị quyết định nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế).

Tháng 11/1940, tại Hội nghị VII của Ban Chấp hành trung ương Đảng CSĐD, ông được bầu là Ủy viên Thường vụ và được phân công chỉ đạo phong trào ở Nam Kỳ. Tháng 11/1940, ông bị bắt khi vừa về đến Sài Gòn. Ngày 18/8/1941, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị bắn ở Hóc Môn.

THÔNG BÁO CỦA TÒA TỔNG GIÁM MỤC SÀI GÒN

Văn bản sai ngữ pháp : dư "vào một dịp khác". Xin xem ở dưới :


THÔNG BÁO CỦA TÒA TỔNG GIÁM MỤC SÀI GÒN

Như chúng ta đã biết, Hội đồng Giám mục Việt Nam và Ủy ban Công lý và Hòa Bình dự kiến tổ chức một cuộc triển lãm về "Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông và Hoàng Sa - Trường Sa" trong thời gian từ ngày 19.6 đến  ngày 22 .6 tại Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 72/12 Trần Quốc Toản, phường 8, quận 3, Tp Hồ Chí Minh.

Không biết vì nguyên nhân nào, và do ai chỉ đạo, cấm đoán, khiến Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn phải ra thông bạch như sau:


Mời xem lại Giấy mời Triển lãm:


Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Những thứ sẽ biến mất trong tương lai?

Những thứ sẽ biến mất trong tương lai?

Với tốc độ phát triển như vũ bão hiện nay, kỹ thuật mang lại cho chúng ta ngày một nhiều tiện ích bất ngờ, những trải nghiệm thú vị. Những phát minh tối tân đang hoặc sẽ dần thay thế những công nghệ “lỗi mốt”. Dưới đây là danh sách 15 công nghệ sẽ biến mất trong tương lai không xa.

1. Internet có dây
Internet không dây sẽ chưa thống lĩnh thị trường trong vòng 8 đến 10 năm tới song nó sẽ nhanh chóng “bức tử” mạng có dây vì chi phí thấp và dịch vụ không giới hạn.

2. Máy ảnh và máy quay phim chuyên dụng
Camera tích hợp trên điện thoại thông minh đang dần giết chết máy ảnh và máy quay phim chuyên dụng sử dụng cho gia đình.
Không giống như máy ảnh, vật dụng chúng ta chỉ mang theo khi cần chụp hình, điện thoại thông minh luôn luôn theo sát chúng ta. Thiết bị công nghệ cao này cung cấp tất cả các ứng dụng và bộ lọc để điều chỉnh hình ảnh theo ý muốn đồng thời cho phép người dùng chia sẻ hình ảnh, video trực tuyến ngay khi chúng ta ghi được.

3. Điện thoại cố định
Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh năm 2010, chỉ 26% các hộ gia đình Mỹ sử dụng điện thoại không dây. Nhưng đến năm 2017, các chuyên gia dự đoán chỉ còn lại một số ít người già sẽ tiếp tục sử dụng điện thoại cố định. Hầu hết mọi người sẽ thích điện thoại cầm tay vì những lợi ích và thuận tiện mà thiết bị di động này mang lại vô cùng đa dạng.

4. Chờ máy tính khởi động
Chờ đợi máy tính khởi động là một trong những nỗi thất vọng công nghệ lớn nhất trong kỷ nguyên máy tính. Nhưng thất vọng này sẽ nhanh chóng biến mất vì giờ đây với Windows 8, hệ điều hành cực nhanh, cho phép khởi động máy tính trong vòng 1-2 giây.

5. Cửa sổ điều hành
Mặc dù hệ điều hành của Microsoft vẫn tồn tại nhưng chúng ta sẽ sớm nói lời tạm biệt với hệ thống cửa sổ nơi các ứng dụng được hiển thị ở hộp kéo xuống cùng với thanh tiêu đề và ứng dụng vì hãng sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới đã có kế hoạch thay thế cửa sổ bằng giao diện người dùng Metro được mặc định cho Windows 8.

6. Ổ đĩa cứng
Ổ đĩa trạng thái rắn SSD cuối cùng cũng cho phép chúng ta vĩnh biệt cách thức lưu trữ dữ liệu trên đĩa từ. Do không có phần chuyển động nên đĩa SSD nhanh và bền hơn rất nhiều đĩa từ. Hiện giá của SSD vẫn cao hơn đĩa từ song trong tương lai máy tính không thể thiếu ổ đĩa SSD.

7. Rạp chiếu phim
Nhiều chuyên gia dự đoán rạp chiếu phim sẽ bị “khai tử” khi tivi ra đời và giữ vị trí cai trị trong thế giới truyền thông. Đến thời điểm này, dự đoán đang trở thành hiện thực khi tivi HD màn hình lớn xuất hiện ngày càng nhiều trong các hộ gia đình và giá của tivi 3D ngày càng hợp lý hơn.

Ngoài ra, các nhà phát hành phim cũng phát các bộ phim theo yêu cầu của khách hàng cùng thời điểm bộ phim được chiếu tại rạp.

Với công nghệ phục vụ tận nhà như hiện nay, chúng ta sẽ không phải tốn một khoản tiên kha khá để mua vé cho cả gia đình đến rạp chiếu bóng thưởng thức một bộ phim yêu thích.

8. Chuột máy tính
Chuột máy tính có thể không biến mất trong vòng 5 năm nữa nhưng sẽ trở thành lựa chọn thứ hai bởi các nhà sản xuất máy tính đang có xu hướng tung ra thị trường dòng sản phẩm cảm ứng hay điều khiển bằng cử chỉ.

9. Kính 3D
Kể từ khi những bộ phim 3D đầu tiên được công chiếu vào những năm 1950, người xem buộc phải đeo kính chuyên dụng 3D mới có thể trải nghiệm hiệu ứng nổi.

Năm 2011, Toshiba đã tung ra thị trường máy tính xách tay F755. Máy tính mini này sử dụng webcam để theo dõi chuyển động của mắt và phục vụ hình ảnh 3D vô cùng sống động.

Năm ngoái, hai nhà sản xuất điện thoại HTC và LG cũng cho ra mắt 2 thiết bị tích hợp màn hình 3D cho phép người dùng xem phim 3D mà không cần kính.
Với tốc độ này, kính 3D sẽ nhanh chóng trở thành dĩ vãng.

10. Điều khiển từ xaĐiện thoại thông minh sẽ giúp chúng ta chuyển kênh tivi mà không cần tới điều khiển từ xa và người dùng thậm chí có thay đổi chương trình bằng giọng nói hay cử chỉ. Điều khiển từ xa đo đó không còn lý do để tồn tại.

11. Máy tính để bàn
Trong kỷ nguyên công nghệ phát triển từng giờ như hiện nay, các nhà sản xuất máy tính sẽ không tiếp tục sản xuất máy tính để bàn. Thay vào đó là máy tính bảng, máy tính xách tay, điện thoại thông minh…

12. Số điện thoại
Với sự ra đời của dịch vụ chat Voice như Skype, Google Talk và Facebook audio…bạn có thể tha hồ nói chuyện với bạn bè, người thân khắp nơi trên thế giới chỉ cần đăng kí tài khoản người dùng. Thế hệ trẻ khi gặp nhau sẽ hỏi ID thay vì hỏi số phone.

13. Chương trình truyền hình phát vào khung giờ cố định
Trước kia mọi người thường phải ngồi quanh tivi vào giờ nhất định để xem chương trình mà họ yêu thích. Giờ đây, tivi internet cung cấp tất cả các chương trình truyền hình miễn phí mà người dùng có thể xem bất cứ khi nào, ở đâu. Chúng ta thậm chí cũng không cần phải ghi lại các chương trình truyền hình vì chúng luôn sẵn có trên mạng.

14. Máy fax
Trong thời đại thư điện tử, nhiều công ty sẽ chấp nhận chữ ký điện tử thay vì chữ ký được gửi qua máy fax. Đây là lý do khiến thiết bị này có thể không tồn tại thêm bao lâu nữa.

15. Đĩa quang học
Với sự tăng trưởng của các dịch vụ tải video từ mạng, đĩa quang học không phải là lựa chọn để người dùng ghi dữ liệu và các nội dung giải trí. Đĩa quang học do đó sẽ khó có chỗ đứng trên thị trường.


Song Hà (Theo Livescience)

Thứ Tư, 18 tháng 6, 2014

Ca khúc “Ánh đạo vàng” của nhạc sĩ Hằng Vang

Ca khúc “Ánh đạo vàng” của nhạc sĩ Hằng Vang

14:43:00 - 25/04/2014
(PGVN) -  Trong tuyển tập “Nhạc Sống” của Gia đình Phật tử Việt Nam xuất bản năm 1965, Hòa thượng Thích Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, sau này là Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh, đã giới thiệu: “Con đường vào đạo có hai lối: một là suy tưởng để trực nhận chân lý, hai là rung cảm để dọn đường cho thông cảm. Đường trên là lối vào Phật pháp, đường dưới là nẻo đi văn nghệ”.
Chính con đường thứ hai đã mở lối cho tôi vào đạo. Bằng con đường này, ngay từ buổi đầu, ca khúc Ánh đạo vàng đã gieo vào lòng tôi một khái niệm về lịch sử của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Ngài là hiện thân và kết tinh của muôn hạnh Từ bi và Trí tuệ. Không phải vì tôi có máu nghệ sĩ, say mê nghệ thuật âm nhạc, nhưng tôi lại được con đường này chinh phục. Điều này tưởng chừng như mâu thuẫn, song đây lại là sự thật. Vì rằng, tôi được sinh ra ở Huế nhưng trưởng thành ở Đắk Lắk, một vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên. 
Hồi gia đình tôi mới vào lập nghiệp, tuy có truyền thống kính Nho tin Phật, nhưng vì bước đầu lo ổn định đời sống dân cư ở vùng mới, cho nên hơn mười năm sau (1988), ở vùng tôi mới thành lập được khuôn hội nhưng chưa có chùa, chỉ làm lễ tạm tại nhà một Phật tử tại gia trường chay để làm nơi tu dưỡng tâm linh vào những ngày sóc vọng (mồng một, rằm) và vào các ngày lễ lớn.
Với một vùng kinh tế mới xa xôi thì gia sản của khuôn hội chỉ là mái tranh tre thô sơ, chánh điện với bức tượng Bổn Sư bằng giấy khiêm tốn và vỏn vẹn chỉ có hai cuốn Nghi thức tụng niệm. Như vậy, kinh sách không có, tìm đâu ra thầy để dạy đạo giảng kinh, hướng dẫn cho mình “suy tưởng, trực nhận chân lý” Phật Đà! Nhưng may mắn thay, vào mùa Phật đản năm sau, khuôn hội có thỉnh ở đâu về hai cuốn băng cassette: một là băng kinh cầu an - cầu siêu, và cuốn kia là băng nhạc Ánh đạo vàng (Trường thanh Phật ca). Để đón mừng ngày Khánh đản vui chung của nhân loại, nên băng nhạc được phát nhiều lần trong ngày. Chính vì thế, sau bao lần đi chùa, tôi mới hiểu được phần nào về Phật giáo và đại cương lịch sử của Đức Bổn Sư Thích Ca qua ca khúc Ánh đạo vàng của nhạc sĩ Hằng Vang.
Đây chính là thời điểm khởi đầu cho tôi vào đạo, đồng thời cũng là lý do và nguyên nhân gợi cảm sâu sắc khi mùa Phật đản PL.2042 về làm động lực để tôi viết cảm nhận về ca khúc này.
Mở đầu băng nhạc là lời giới thiệu mang đậm nét triết lý nhà Phật như “Đời là cõi tạm, kiếp đời, yêu người, yêu quê hương, nhân loại. Dù đời gặp nhiều ngang trái khổ đau, nhưng đạo đức và tình thương yêu lẫn nhau vẫn là con đường giải thoát cao đẹp nhất. Ôi! Đạo Phật thật là vi diệu”.
Trước khi đi vào nội dung ca khúc, người viết xin giới thiệu đôi nét về nhạc sĩ Hằng Vang - tác giả ca khúc Ánh đạo vàng.
Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933, là người con xứ Huế đất Thần kinh. Cảm đức Từ bi, nhạc sĩ đã quy y Tam bảo, với pháp danh Như Niên, là một huynh trưởng Gia đình Phật tử gắn liền với Phật giáo Việt Nam 60 năm qua. Tuy hiện tại sống ở Đắk Lắk, nhưng nhạc sĩ luôn gắn bó với các hoạt động của Phật giáo tỉnh nhà cũng như ở các tỉnh, thành hội Phật giáo gần xa. Ông luôn tâm niệm rằng: “Âm nhạc Phật giáo có tác dụng hữu hiệu trong việc chuyển tải tư tưởng Phật-đà”.
Là Phật tử, nên hầu hết các tác phẩm của ông đều mang tư tưởng giải thoát, khuyến thiện, xiển dương chân lý đạo Phật. Giai điệu và ca từ toát lên chất liệu từ bi, vị tha, vô ngã; thể hiện tình yêu thương nhân loại và đậm đà bản sắc dân tộc. Một lần nữa, năm 1965, qua cuộc thi sáng tác Phật nhạc, ông được hân hạnh giải nhận giải nhất với ca khúc “Lời sám nguyện” và hai giải khuyến khích “Trường ca Phật sử”  “Tin loạn quê hương” do Hội đồng Giám khảo trao giải thưởng tại Nhà hát Lớn Sài Gòn (2-1965), tên tuổi của ông được biết đến khắp nơi. Từ đó về sau, ông chuyên tâm sáng tác và hoạt động văn nghệ Phật giáo. 
Ca khúc Ánh đạo vàng ngày một chiếm ưu thế trong lòng thính giả và lan tỏa khắp nơi qua sự thể hiện thành công của các ca sĩ Vũ Khanh, Hoàng Bá Tước, Thanh Tuyền, Thùy Dương, Vân Khánh… Đặc biệt, trong các chủ đề về ca khúc Phật giáo, Ánh đạo vàng luôn làm chủ đạo cho các băng nhạc ra đời như: “Ánh đạo vàng, Tiếng chuông chùa, Nhạc từ bi, Mây đầu hạ, Kính mừng Phật đản…”. Nhưng trên tất cả, với hai băng nhạc “Từ bi ca” do nhạc sĩ trực tiếp hợp tác với Tỉnh hội Phật giáo Đắk Lắk và chùa Phước Viên - Biên Hòa, Đồng Nai, qua sự thể hiện thành công nổi bật của ca sĩ Thùy Dương, ca khúc như nguồn suối mát cam-lồ rót vào quần chúng.
anh minh hoa.jpg
Mùa Phật đản về, ca khúc Ánh đạo vàng trở thành ca khúc thường dùng
trong các chương trình văn nghệ Phật giáo - Ảnh minh họa
Trở lại với nội dung, ta thấy nhạc phẩm Ánh đạo vàng được viết ở chủ âm rê - thứ theo luật nhạc cân phương với 32 ô nhịp. Mỗi phân đoạn gồm tám ô nhịp với giai điệu mượt mà, sâu lắng, tỏ lòng thành kính, trang nghiêm. Ca từ mộc mạc, không trau chuốt, nghe như chuyện kể đời xưa. Mỗi phân đoạn là một quãng đời của Đức Phật, một giai điệu đặc biệt dùng để viết về nhạc Phật giáo. 
Ưu điểm chính lớn của ca khúc là tác giả đã gieo vào một hứng nhạc khá dồi dào: sự am hiểu giáo lý nhà Phật, nên nhạc sĩ đã xây dựng những ca từ đượm nhuần chất liệu Phật giáo. Mỗi ca từ vang lên dễ dàng đi vào lòng thính giả qua thể tự sự: kể về lịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chính ca từ mộc mạc mang tính trần thuật đó mà ca khúc dễ dàng đi vào lòng người cho những ai mới tin Phật muốn tìm về chân lý. Đây quả là một ca khúc mang tính nghệ thuật cao.
Chỉ 132 ca từ mà nhạc sĩ Hằng Vang đã chuyển tải được cả một cuộc đời cao quý vĩ đại của Đức Phật. Đây là điều mà một nhạc sĩ thông thường khi viết về nhạc tôn giáo khó có thể làm được. Trái lại, nhạc sĩ Hằng Vang đã làm được vì ông là một Phật tử có một đời sống gắn liền với Phật giáo.
Hơn năm mươi năm trôi qua, kể từ khi ca khúc Ánh đạo vàng xuất hiện, hình ảnh Đức Thế Tôn càng thêm hiện hữu và lan rộng khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Mỗi ca từ mang tính trần thuật lược sử, với âm điệu trầm lắng thể hiện sự thành kính đã đi vào lòng người trong và ngoài nước, khiến họ bước theo Ánh đạo vàng để yêu người, yêu đời, yêu quê hương, đất nước.
Thích Quảng Trí